Những học giả Trung Quốc chân chính cũng phải thừa nhận
"trong vấn đề Biển Đông, bản thân Trung Quốc không có lập trường rõ
ràng, tiền hậu bất nhất, gây tổn hại nghiêm trọng tới uy tín quốc tế của
Trung Quốc LTS: Ngày 31/7/2011 Tuần Việt Nam đã đăng bài "Trung Quốc ngụy biện về đường lưỡi bò"
giới thiệu bài báo của ông Lý Quốc Cường, một nhà nghiên cứu của Trung
tâm Nghiên cứu về Biên giới Lịch sử và Địa lý Trung Quốc, thuộc Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc trên báo China Daily. Mặc dù đã có khá nhiều
bài viết phân tích về tính vô lý của đường lưỡi bò, việc chỉ ra những
luận điểm chủ quan của tác giả bài viết trên là một việc nên làm trao
đổi khoa học thẳng thắn.Đường lưỡi bò của Trung Quốc được thế giới biết đến
chính thức vào ngày 7/5/2009 qua Công hàm của Phái đoàn Ngoại giao Trung
Quốc tại Liên hợp quốc phản đối hồ sơ chung ranh giới ngoài thềm lục
địa Việt Nam-Malaysia và hồ sơ Việt Nam về ranh giới thềm lục địa thực
hiện nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Công ước luật biển năm 1982.
Trước đó, con đường này có tồn tại một cách dấm dúi trong đầu óc của
những kẻ ôm mộng Đại Hán, được thay đổi một cách tùy tiện phục vụ cho
mưu đồ độc chiếm biển. Tác giả cho rằng đường chữ U là "
Biên giới
hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông là kết quả của tiến trình lịch sử,
và đây là quốc gia duy nhất để phát triển khu vực liên tục trong suốt
quá trình lịch sử. Bởi thế, người Trung Quốc có quyền chính yếu với các
đảo ở Biển Đông". Ngược lại ông cho rằng "
Việt Nam, Malaysia và
Philippines hầu như không biết bất kỳ điều gì về các đảo ở Biển Đông
trước triều nhà Thanh (1644-1911), cũng như không có bằng chứng chứng tỏ
các hoạt động của tổ tiên họ ở Biển Đông, dù chỉ là để lại một cái tên
với bất kỳ hòn đảo nào".
9 điểm phi lý của đường lưỡi bòVề sự mơ hồ của đường lưỡi bò, đã có nhiều bài viết phân tích.[1] ở đây chỉ xin nhắc lại ít nhất 9 điểm phi lý.
Trước hết, thời điểm xuất hiện của đường lưỡi bò còn
chưa được các tác giả Trung Quốc thống nhất, lúc thì nói là năm 1948, có
lúc lại đẩy lên những năm 1930s.
Thứ hai, nguồn gốc đường này chỉ là một dạng xuất bản tư nhân.
|
"Đường lưỡi bò" phi lý do Trung Quốc tự vẽ, bị nhiều nước phản đối. Ảnh: BBC |
Thứ ba, một đường lúc thì 11 đoạn, lúc thì 9 đoạn, vẽ
tùy tiện, không tọa độ, không rõ ràng sao có khả năng thể hiện một
đường yêu sách biên giới rõ ràng theo đúng các quy định của luật quốc tế
để các quốc gia khác phải bận tâm.
Thứ tư, vào thời điểm đường lưỡi bò đang được Bộ Nội
vụ Trung Hoa in trên bản đồ, Pháp đã đưa tàu và quân ra đóng giữ đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, tiếp tục duy trì danh nghĩa chủ quyền kế thừa từ
Nhà nước phong kiến An Nam và hoạt động chiếm hữu theo luật quốc tế của
Pháp năm 1933. Hoạt động thực tiễn này chẳng phải là sự phản đối hùng
hồn ý định yêu sách hai quần đảo bằng cách vẽ đường chữ U từ phía nước
láng giềng phương Bắc đó sao.
Thứ năm, Hiệp ước hòa bình San Francisco 1951 không
đả động chút gì tới đường lưỡi bò. Ngay cả Tuyên bố của Thủ tướng Chu Ân
Lai năm 1951 về Dự thảo Hiệp ước San Francisco cũng đâu có nhắc gì đến
đường chữ U. Cuộc bỏ phiếu giao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc tại
Hội nghị San Francissco theo đề nghị của Bộ trưởng Ngoại giao Xô viết
Gromuko đã bị đa số bác bỏ (46 chống, 3 ủng hộ, 1 trắng). Vì vậy, không
thể nói đã có sự công nhận quốc tế về chủ quyền Trung Quốc trên các đảo
trong Biển Đông chứ đừng nói gì đến đường chữ U hay toàn bộ vùng biển
trong đường chữ U.
Thứ sáu, thực tế tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như
đòi hỏi của Philippines, Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ
phận của quần đảo Trường Sa cho thấy không thể nói đường chữ U trên Biển
Đông mà Trung Quốc vạch ra đã được các nước khác công nhận.
Thứ bảy, ngay cả những nước không liên quan gì đến
tranh chấp cũng thể hiện quan điểm không đồng tình. Mỹ không công nhận
bất kỳ vùng biển nào không gắn với đất liền và đảo. Indonexia cho lưu
chuyển tại Liên hợp quốc ngày 8/7/2010 Công hàm không chấp nhận đường
lưỡi bò của Trung Quốc.
Thứ tám, đường chữ U yêu sách cái gì, nội hàm của nó
yêu sách đảo, vùng biển hay cả hai, hay gì gì đi nữa là câu hỏi mà các
tác giả Trung Quốc cũng chưa bao giờ thống nhất. Ngay trong bài viết
trên China Daily cũng đầy mâu thuẫn khi tác giả của nó biện minh
"biên giới biển của Trung Quốc ở Biển Đông là kết quả của tiến trình lịch sử" rồi lại nói "
Trung
Quốc sở hữu danh nghĩa lịch sử với các đảo, bãi đá ngầm, bãi cạn trong
phạm vi đường chín đoạn, mặc dù điều đó không có nghĩa là toàn bộ vùng
biển trong đường này thuộc về vùng nội thủy của Trung Quốc". Ai cũng
biết biên giới biển là để chia đường phân định biển giữa các quốc gia
chứ không phải là đường phân chia đảo hay chủ quyền trên đảo. Đã nói đến
biên giới biển tức vùng nước bên trong nó phải được đặt dưới chế độ nội
thủy và lãnh hải vì biên giới đánh dấu sự kết thúc chủ quyền của một
quốc gia.
Thứ chín, tác giả bài báo trên China Daily đã cố tình
diễn giải sai Công ước luật biển 1982 để biện minh cho đường lưỡi bò
dưới dạng một danh nghĩa lịch sử. Toàn văn điều 15 là :
"Khi hai quốc
gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được
quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó
cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy
nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh
nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định
ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác". Không có bất kỳ
một quy định nào viện dẫn danh nghĩa lịch sử cho vùng biển rộng hơn 12
hải lý chứ đừng nói cách bờ vài trăm hải lý như đường lưỡi bò. Cho nên
không thể nói Công ước luật biển công nhận và bảo vệ cho danh nghĩa lịch
sử của Trung Quốc. Lập luận đường lưỡi bò là đường vùng nước lịch sử đã
không thể thuyết phục được cộng đồng quốc tế vì ngay cả trong Tài liệu
chuẩn bị cho Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển năm 1958 trong danh
sách các vùng nước lịch sử của thế giới không có tên một vùng nước nào
trong Biển Đông. Công ước luật biển năm 1982 đâu có chấp nhận một vùng
nước lịch sử nào trong Biển Đông.
Chính học giả TQ thừa nhận lập trường "tiền hậu bất nhất"Sự mơ hồ và quá ư phi lý của đường lưỡi bò buộc các
học giả nước ngoài phải lên tiếng yêu cầu Trung Quốc giải thích. Tại bất
kỳ cuộc Hội thảo quốc tế nào về Biển Đông, các học giả Trung Quốc đều
bị chất vấn về đường lưỡi bò. Tại hội thảo Vấn đề An ninh ở Biển Đông tổ
chức ở Washington tháng 6/2011 gần đây khi bị chất vấn, học giả Trung
Quốc đã có những phát biểu quanh co, làm những người dự hội nghị cảm
thấy "quá khiên cưỡng", gây ấn tượng "không trung thực", mơ hồ. Họ buộc
phải thừa nhận "chuẩn bị chưa đầy đủ" nhưng với cử tọa đó là biểu hiện
của sự đuối lý.[2]
Stein Tonnesson, Giám đốc Viện Hòa bình Quốc tế có
trụ sở ở Ôxlô (Na uy), cho rằng căng thẳng Biển Đông chủ yếu tập trung ở
đường chữ U, và để giảm bớt căng thẳng , Trung Quốc cần làm rõ lập
trường về đường chữ U đối với cộng đồng quốc tế cũng như dư luận trong
nước đang bấy lâu "lầm tưởng" về yêu sách mà Bắc Kinh tuyên bố.[3]
Những học giả Trung Quốc chân chính cũng phải thừa nhận
"trong
vấn đề Biển Đông, bản thân Trung Quốc không có lập trường rõ ràng, tiền
hậu bất nhất, gây tổn hại nghiêm trọng tới uy tín quốc tế của Trung
Quốc".[4]
Trần Phả trong Tạp chí "Khai Phóng" số tháng 7/2011 của Hồng Kông bình luận:
"câu
hỏi đặt ra là liệu việc Trung Quốc vẽ đường phạm vi chủ quyền Biển Đông
(đường chữ U) tới "cửa nhà" của các nước như Việt Nam, Philíppin,
Malaixia và Brunây có hợp tới tình hình khách quan hay không? Đối chiếu
với các quy định bằng văn bản rõ ràng liên quan tới việc "các nước có
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý" trong Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển mà Trung Quốc ký từ năm 1982, Trung Quốc càng khó có thể bào chữa
cho kiểu hoạch định này của mình. Trên thực tế, từ việc tự vạch (đường
chữ U) cho tới cách nói về "lợi ích cốt lõi" đều là chuyện "mua dây buộc
mình" của Trung Quốc". Người đọc cũng tự hỏi liệu Trung Quốc có
chấp nhận có nước viện dẫn câu nói "Mặt trời không bao giờ lặn trên đất
nước Anh" để đòi hỏi các vùng nước lịch sử trước cửa ngõ của Bắc Kinh?
Chủ quyền phải được xác lập bằng hành động chiếm hữu thực tế của Nhà nướcQuaa trở lại hai lập luận trên mà tác giả bài báo
viện dẫn. Nếu nói chỉ có Trung Quốc là quốc gia duy nhất phát triển khu
vực trong lịch sử, người Trung Quốc đã phát hiện, đã quản lý các quần
đảo ở Biển Đông từ thời Nhà Hán, Nhà Tấn (hơn 200 năm trước CN), liên
tục qua các đời Minh, Thanh thì tác giả nên đọc lại các tác phẩm và văn
kiện của Trung Quốc trong lịch sử.
Các sách
Nam châu dị vật chí của Dương Phù và
Phù Nam truyện của Khang Thái, viết vào thời Tam quốc (220-265)
, Vũ kinh tổng yếu của Tăng Công Lượng (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) biên soạn thời Tống,
Đảo di chí lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368),
Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp viết thời nhà Minh (1368 - 1644),
Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh,
Hải Quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh năm 1730,
Dương phòng tập yếu của Nghiêm Như Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828,...nếu có nói
đến nhận biết các đảo trên Biển Đông đều là nằm ngoài cương vực Trung
Quốc, thuộc các nước "man di". Các sách chính thống như
Quỳnh Châu
phủ chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di
đồ(1905), Trung Quốc Địa lý Giáo khoa thư, Thương Vụ ấn Thư Quán,Thượng
Hải năm 1906 xuất bản đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh thổ Trung Quốc nằm ở Nhai Châu, Hải Nam, vĩ độ 18
013' Nam.
Suốt cả giai đoạn 2000 năm lịch sử, sách trắng Bộ
Ngoại giao Trung Quốc năm 1980 cũng chỉ đưa ra được 4 đoạn cắt xén, lắp
ghép có chủ ý trong Tổng Sử, Minh Sử, Nguyên Sử với những địa danh như
Thất Châu dương chẳng liên quan gì đến Hoàng Sa, Trường Sa để nói là có
quản lý. Chưa nói đến tính chất ngụy biện, 4 sự việc trong 2000 năm sao
có thể nói là liên tục. Trong vụ đắm tàu Đức "Bellona" tại Đá Bắc và tàu
Nhật "Imegi Maru" tại cụm An Vĩnh thuộc Hoàng Sa những năm 1895 - 1896,
chính các quan Trung Quốc đã từ chối cứu hộ vì cho rằng các đảo
Paracels không thuộc Trung Quốc.
Ngay cả đến năm 1932, khi tranh chấp với Pháp về quần
đảo Hoàng Sa, Phái đoàn Trung Quốc tại Paris còn có công hàm yêu sách:
cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là quần đảo Tây Sa". Cái chính mà tác
giả cố tình lờ đi đó là theo luật quốc tế chủ quyền chỉ có thể được xác
lập bằng hành động chiếm hữu thực tế của Nhà nước chứ không phải của ngư
dân, của người đi biển, của phát hiện, của nhận biết hay ngộ nhận.
Không bàn tới tính chất ngạo mạn khi nhận xét người
Việt Nam, Malaysia, Philippin không biết gì về các đảo trong Biển Đông,
chỉ cần giở lại chính những gì sử Trung Quốc viết.
Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696 chép:
"Bởi
vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây
Nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước
biển ; mặt cắt khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành ; bãi
cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể,
gọi là " Vạn lý Trường Sa", mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền
bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo, không
nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường,
chừng bảy trăm dặm. Các Quốc vương thời trước, hàng năm sai thuyền đi
đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư
hỏng dạt vào".
Hải Lục của Vương Bính Nam năm 1842 chép: "Vạn
lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu cuả An
Nam". Thậm chí người Trung Quốc còn giúp đỡ các đội viên Đội Hoàng Sa
của Việt Nam bị bão trôi giạt vào bờ biển Hải Nam.
Đại Nam thực lục tiền biên (1600 - 1775) quyển 10 viết: "Tháng 7, mùa thu, năm Giáp Tuất (1774),
dân đội Hoàng Sa gặp gió to, giạt vào hải phận Quỳnh Châu, thuộc nhà
Thanh. Quan Tổng đốc nhà Thanh chu cấp cho đầy đủ rồi sai đưa về. Chúa
sai viết thư gửi qua cảm ơn". Rõ ràng người Trung Quốc biết các đảo này
thuộc quyền quản lý của các Quốc vương An Nam và đã vui vẻ giúp đỡ cho
các thần dân gặp nạn của họ.
Cuối cùng, tác giả bài báo răn dạy: "
Tất cả các
nước ký UNCLOS nên hiểu rằng, công ước chỉ là một trong các luật pháp về
biển của quốc tế (vốn không chỉ có một) và vì thế nên ngừng nghi ngờ về
tính hợp pháp về đường chín đoạn của Trung Quốc". Liệu có thể hiểu
rằng, theo ý tác giả, Trung Quốc nước ký Công ước Luật biển có quyền
muốn áp dụng hay không áp dụng Công ước luật biển một cách tùy thích
trong khi Công ước là một biện pháp cả gói (package deal) không có bảo
lưu?
Để cộng đồng thế giới ngừng nghi ngờ về tính hợp pháp
về đường chín đoạn của Trung Quốc, trước hết người Trung Quốc nên nói
rõ họ đòi hỏi cái gì ở Biển Đông, dựa trên những bằng chứng pháp lý nào
chứ không phải những bằng cứ lịch sử mơ hồ. Nếu Trung Quốc tự tin vào
đường chín đoạn của mình, hãy sẵn sàng bàn thảo đa phương với các nước
liên quan cũng như lời kêu gọi của Philippin về một thủ tục trọng tài.[5]