Kinh tế học Kinh tế học là môn
khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và
dịch vụ. Nghiên cứu kinh tế học nhằm mục đích giải thích cách thức các
nền kinh tế vận động và cách tác nhân kinh tế tương tác với nhau. Các
nguyên tắc kinh tế được ứng dụng trong đời sống xã hội, trong thương
mại, tài chính và hành chính công, thậm chí là trong ngành
tội phạm học, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác.
Định nghĩa kinh tế họcTheo một khái niệm chung nhất,
kinh tế học là một bộ môn
khoa học xã hội giúp cho
con người hiểu về cách thức vận hành của
nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm
nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các
đơn vị kinh tế phải lựa chọn. Các
Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là "
khoa học của sự lựa chọn". Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa
nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong
sản xuất,
phân phối và
tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế.
Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế
tổng thể và hành vi của các chủ thể riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm
các
doanh nghiệp,
hộ tiêu dùng,
người lao động và
chính phủ.
Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu để hướng tới, đó là tối đa hóa lợi
ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa
lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa
mức độ tiêu dùng, mục tiêu của người lao động là tối đa hóa
tiền công và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa
lợi ích xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các chủ thể kinh tế giải quyết bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này.
Kinh tế học có hai bộ phận cấu thành hữu cơ là
kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô. Các Nhà Kinh tế phân kinh tế học theo hai mức độ phân tích khác nhau:
vi mô và
vĩ mô.
Kinh tế học vi môKinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của các cá nhân và doanh nghiệp và các tương
tác giữa các quyết định này trên thị trường. Kinh tế học vi mô giải
quyết các đơn vị cụ thể của nền kinh tế và xem xét một cách chi tiết
cách thức vận hành của các đơn vị kinh tế hay các phân đoạn của nền kinh
tế.
Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một
hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các qui định,
thuế của chính phủ tác động đến
giá và
lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các
yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe hơi, đồng thời nghiên cứu các qui
định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và sản lượng xe hơi trên
thị trường.
Kinh tế học vĩ môKinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền
kinh tế quốc gia và
kinh tế toàn cầu,
xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể,
toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận
cấu thành của nền kinh tế.
Mục tiêu phân tích của kinh tế học vĩ mô nhằm giải thích giá cả bình
quân, tổng việc làm, tổng thu nhập, tổng sản lượng sản xuất. Kinh tế học
vĩ mô còn nghiên cứu các tác động của chính phủ như
thu ngân sách,
chi tiêu chính phủ,
thâm hụt ngân sách lên
tổng việc làm và
tổng thu nhập. Chẳng hạn, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu
chi phí sống bình quân của dân cư, tổng giá trị sản xuất,
thu chi ngân sách của một
quốc gia.
Sự phân biệt
kinh tế học vi mô và
vĩ mô không có nghĩa là phải tách rời các vấn đề kinh tế một cách riêng biệt.
Nhiều vấn đề liên quan đến cả hai. Chẳng hạn, sự ra đời của video game
và sự phát triển của thị trường sản phẩm truyền thông. Kinh tế học vĩ mô
giải thích ảnh hưởng của phát minh lên tổng chi tiêu và việc làm của
toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó, kinh tế học vi mô giải thích các ảnh
hưởng của phát minh lên giá và lượng của sản phẩm này và số người tham
gia trò chơi.
Kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận
cấu thành quan trọng của môn kinh tế học, có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Mối quan hệ này cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý kinh tế,
cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện
vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa
lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự
điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển
ổn định,
bình đẳng và
công bằng.
Kinh tế học là một nhánh của
khoa học xã hội nghiên cứu
sản xuất,
phân phối,
tiêu dùng các
hàng hóa và
dịch vụ. Từ "economics" (nghĩa là: kinh tế học) trong
tiếng Anh (và các chữ tương tự như: "économiques" trong
tiếng Pháp, "Ökonomik" trong
tiếng Đức) bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp với "oikos" là "nhà" và "nomos" là "quy tắc" hay "quy luật", nghĩa là
"quy tắc quản lí gia đình". Trong tiếng Việt, từ "kinh tế" là một
từ Hán Việt,
rút gọn từ cụm từ "kinh bang tế thế"(nghĩa là: trị nước, giúp đời) và
từ "học" là một từ Hán Việt có nghĩa là "tiếp thu tri thức" thường được
đi kèm sau tên các ngành khoa học (như "ngôn ngữ học","toán học"). Nội
dung của
khái niệm kinh tế đã mở rộng cùng với sự phát triển
xã hội và
nhận thức của con người. Kinh tế được xem là một lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người trong việc tạo ra
giá trị đồng thời với sự tác động của con người vào thiên nhiên nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người và xã hội. Xuất phát từ nhận thức sự phát triển những mối
quan hệ trong quá trình đó đã hình thành một môn khoa học, gọi là khoa
học kinh tế, gồm tập hợp các ngành khoa học được chia thành hai nhóm:
Sản xuất,
tiêu dùng,
tiết kiệm,
đầu tư, mua quà tặng hay đi du lịch... mỗi hành động của con người hiện đại đều ngầm chứa một
hành vi kinh tế, vậy nên thật khó có thể đưa ra một định nghĩa kinh tế học vừa đơn giản mà lại vừa bao quát vấn đề.
Mặc dù, những cuộc thảo luận về sản xuất và phân phối đã trải qua một
quá trình lịch sử lâu dài, kinh tế học được xem là một khoa học độc lập
chỉ được xác định chính thức vào thời điểm xuất bản cuốn sách "Của cải
của các dân tộc" viết bởi
Adam Smith năm
1776.
Smith dùng thuật ngữ "kinh tế chính trị" để gọi tên môn khoa học này,
nhưng dần dần, thuật ngữ này đã được thay thế bằng thuật ngữ "kinh tế
học" từ sau năm 1870. Ông cho rằng "sự giàu có" chỉ xuất hiện khi con
người có thể sản xuất nhiều hơn với nguồn lực lao động và tài nguyên sẵn
có. Như vậy, theo Smith, định nghĩa kinh tế cũng là định nghĩa về sự
giàu có
[1].
John Stuart Mill định nghĩa khoa học kinh tế là “khoa học ứng dụng của sản xuất và phân phối của cải”
[2]. Định nghĩa này được đưa vào
từ điển tiếng Anh rút gọn Oxford mặc dù nó không đề cập đến vai trò quan trọng của tiêu thụ. Đối với Mill
của cải được xác định như toàn bộ những vật thể có ích.
Định nghĩa được xem là bao quát nhất cho kinh tế học hiện đại do
Lionel Robbins đưa ra là: “Khoa học nghiên cứu hành vi con người cũng như mối quan hệ
giữa nhu cầu và nguồn lực khan hiếm, trong đó có giải pháp chọn lựa cách
sử dụng”
[3] . Theo ông,
sự khan hiếm nguồn lực có nghĩa là tài nguyên không đủ để thỏa mãn tất cả mọi ước muốn và
nhu cầu của mọi người. Không có sự khan hiếm và các cách sử dụng nguồn lực thay
thế nhau thì sẽ không có vấn đề kinh tế nào cả. Do đó, kinh tế học, giờ
đây trở thành khoa học của
sự lựa chọn bị ảnh hưởng như thế nào bởi các
động lực khuyến khích và các
nguồn lực.
Một trong các ứng dụng của kinh tế học là giải thích làm thế nào mà
nền kinh tế, hay
hệ thống kinh tế hoạt động và có những mối quan hệ nào giữa những người chơi (
tác nhân)
kinh tế trong một xã hội rộng lớn hơn. Những phương pháp phân tích vốn
ban đầu là của kinh tế học, giờ đây, cũng được ứng dụng trong nhiều lĩnh
vực khác liên quan đến sự lựa chọn của con người trong các tình huống
xã hội như
tội phạm,
giáo dục,
gia đình,
khoa học sức khoẻ,
luật,
chính trị,
tôn giáo,
thể chế xã hội hay
chiến tranh.
Kinh tế học lý luận là phần quan trọng nhất của khoa học kinh tế, tạo
ra cơ sở lý luận để phát triển kinh tế học ứng dụng. Bằng các cách tiếp
cận khác nhau các nhà nghiên cứu muốn đưa ra những học thuyết hợp lý
nhằm làm sáng tỏ bức tranh hoạt động kinh tế của xã hội và theo đó, sử
dụng học thuyết để làm công cụ phân tích và dự đoán những xu hướng kinh
tế. Các lý thuyết kinh tế được xây dựng từ các
phạm trù của kinh tế như:
giá trị,
lao động,
trao đổi,
tiền tệ,
tư bản v.v. Trong đó các phạm trù của kinh tế đóng vai trò như những công cụ
nhận thức riêng biệt. Các quá trình kinh tế được xem là cơ bản và là đối
tượng nghiên cứu của khoa học kinh tế là sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu thụ hàng hóa. Tuy nhiên nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình mới,
đã vượt khỏi khuôn khổ của các phạm trù được xác lập từ trước, làm suy
yếu tính lý giải và khả năng phân tích của nhiều học thuyết. Mặt khác,
các học thuyết riêng biệt cũng chỉ làm sáng tỏ phần nào đó của đời sống
kinh tế mà thôi. Kinh tế học lý luận vẫn còn đang tiếp tục sửa đổi, bổ
sung và phát triển. Người nhận giải thưởng
Nobel Kinh tế năm 1988
Maurice Allais nhận định vấn đề phát triển kinh tế học lý luận như sau: “Cũng như vật
lý học hiện nay cần một lý thuyết thống nhất về vạn vật hấp dẫn, các
ngành khoa học nhân văn cần một lý thuyết thống nhất về hành vi con
người”
[4]. Vấn đề đó đến nay vẫn còn là một khoảng trống trong khoa học kinh tế.
Kinh tế học là việc nghiên cứu xem xã hội quyết định các vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
[5].
Cách tiếp cận kinh tế học lý luận1. Xem kinh tế như một hệ thống của lực lượng sản xuất và quan hệ
- sản xuất. Trong đó lý thuyết không chỉ nghiên cứu các biểu hiện bên
ngoài của các quá trình kinh tế, mà còn liên hệ chúng với bản chất xã
hội trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Cách tiếp cận này là định
hướng của kinh tế chính trị và đặc biệt đối với học thuyết kinh tế chính trị Marx-Lenin
2. Xem xét quan hệ
nhu cầu -
tài nguyên với nhận định rằng nhu cầu là vô hạn, còn tài nguyên là hữu hạn. Trên cơ sở đó lý thuyết kinh tế hướng đến việc tìm ra
hiệu quả kinh tế
- thông qua lựa chọn hợp lý các yếu tố hay tổ hợp các yếu tố sản xuất.
Cách tiếp cận này là cơ sở nghiên cứu của Kinh tế học hiện tại
(Economics). Nó định hướng cho nghiên cứu vấn đề phân phối các nguồn tài
nguyên khan hiếm. Quá trình phân phối trước hết đối mặt với vấn đề con
người: "Ai được sử dụng gì?", sau đó là vấn đề thời gian: "Sử dụng trong
hiện tại hay trong tương lai?" Trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng
thị trường là nơi có thể đưa ra một cách tối ưu nhất quyết định ai, tài
nguyên nào và khi nào sử dụng; trong khi trường phái kinh tế tập trung
cho rằng nhà nước hoàn toàn có thể quyết định thay thị trường phân phối
tài nguyên thông qua các công cụ quan sát và kế hoạch hóa. Kể từ John Maynard Keynes, kinh tế học hiện đại được dung hòa giữa vai trò của thị trường và sự can thiệp của nhà nước.
3. Xem
hệ thống xã hội là tập hợp các
quan hệ kinh tế-xã hội mà mục đích của hệ thống đó là
tăng trưởng kinh tế
- bền vững và thịnh vượng xã hội thông qua sử dụng hiệu quả tài nguyên và
cách điều hòa hợp lý của nhà nước. Cách tiếp cận này tạo cơ sở nghiên
cứu cho kinh tế học định chế.
Hiện nay vẫn chiếm ưu thế là cách tiếp cận về sự khan hiếm tài
nguyên. Bởi vì các tài nguyên mà con người có thể sử dụng được là hữu
hạn, cho nên con người buộc phải lựa chọn cách sử dụng chúng thế nào để
đạt lợi ích lớn nhất.
Các lĩnh vực nghiên cứu của khoa học kinh tếLĩnh vực nghiên cứu được phân loại bằng các cách khác nhau:
1.
Kinh tế vi mô,
kinh tế vĩ mô và
kinh tế thế giới là cách chia theo kinh tế học hiện tại (Economics)
- 2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
Kinh tế học được gọi là thực chứng khi nó nhằm mục đích giải thích các
hậu quả từ những lựa chọn khác nhau dựa trên một tập hợp các giả định
hay các quan sát và được gọi là chuẩn tắc khi nó nhằm đưa ra lời khuyên
cần phải làm gì.
- 3. Kinh tế chính thống và kinh tế phi chính thống. Được gọi là chính thống nếu định hướng nghiên cứu tuân theo tổ hợp giả thuyết “Hợp lý – Chủ nghĩa cá thể - Cân bằng” và phi chính thống nếu chuyên theo “Định chế - Lịch sử - Cơ cấu xã hội”.
- 4. Phân loại theo ngành nếu nghiên cứu kinh tế kết hợp với các ngành
khoa học khác hoặc vấn đề kinh tế nằm trong phạm vi các lĩnh vực nghiên
cứu khác. Đó là: địa lý kinh tế, lịch sử kinh tế, kinh tế văn hóa, kinh tế công cộng, kinh tế tiền tệ, kinh tế quốc tế, kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp, kinh tế môi trường, kinh tế tài chính, kinh tế thông tin, kinh tế lao động, luật và kinh tế, toán kinh tế, lý thuyết trò chơi, thống kê, kinh tế lượng, kế toán.
Lược sử khoa học kinh tế và các trường phái kinh tếCác trường phái kinh tế học sơ khaiCác trường phái kinh tế học cổ đại xuất hiện rất sớm từ thời các nền dân chủ
Lưỡng Hà,
Hy Lạp,
La Mã,
Ấn Độ,
Trung Quốc,
Ba Tư và
Ả Rập. Nhiều học giả nổi tiếng như
Aristotle,
Chanakya,
Tần Thuỷ Hoàng,
Thomas Aquinas và
Ibn Khaldun vào thế kỷ 14.
Joseph Schumpeter được xem là người khởi đầu cho giai đoạn Hậu
triết học kinh viện vào khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, được đánh giá là "đã
tiến rất gần tới chỗ kinh tế học trở thành một khoa học thật sự", khi đã
đề cập đến
tiền tệ,
lãi suất,
thuyết giá trị trên quan điểm
quy luật tự nhiên. Những khám phá của Ibn Khaldun trong cuốn
Muqaddimah được Schumpeter đánh giá là người đi trước và tiến rất gần tới kinh tế
học hiện đại, mặc dù các lý thuyết của ông không được biết đến nhiều cho
tới tận gần đây.
Lý thuyết kinh tế là môn khoa học từ khi nó trở thành một hệ thống kiến thức về các quy luật,
nguyên tắc,
phương pháp,
có khả năng phản ánh và điều hành sự phát triển kinh tế và xã hội.
Những tư tưởng kinh tế đã bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ 17-18, giai đoạn
hình thành
chủ nghĩa tư bản. Có hai nhóm học giả, là những nhà
trọng thương và những người
trọng nông,
đã có những ảnh hưởng trực tiếp hơn đến những bước phát triển về sau
này của kinh tế học. Cả hai nhóm này đều liên quan đến sự phát triển của
chủ nghĩa bảo hộ nội địa và
chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Trường phái kinh tế đầu tiên là
chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism) mà người đại diện của nó là
Antuan Moncretien với tác phẩm “Luận bàn về kinh tế chính trị” (1615) đã đưa khái niệm
này vào tập hợp thuật ngữ khoa học. Khoa học kinh tế đầu tiên phát triển
từ
kinh tế chính trị,
tuy cuối thế kỷ 19 ở phương Tây thuật ngữ kinh tế chính trị (Political
economy) đã được thay bằng thuật ngữ kinh tế học (Economics), đồng thời
với sự xuất hiện nhiều học thuyết kinh tế tách các quan hệ chính trị-xã
hội ra khỏi đối tượng nghiên cứu, đề xuất những phương pháp mới không
liên quan đến thuyết giá trị về lao động hay quyền lợi giai cấp.
Chủ nghĩa trọng thương là một
học thuyết kinh tế nở rộ vào thời gian từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 trong các cuộc đàm đạo chính sự, giữa những
thương gia và
chính khách.
Theo chủ nghĩa này thì của cải của quốc gia nên phụ thuộc vào vàng và
bạc. Các quốc gia không có sẵn mỏ vàng/bạc có thể vẫn sở hữu vàng/bạc
thông qua
thương mại bằng cách bán hàng hóa ra nước ngoài và hạn chế nhập khẩu hàng hóa, trừ vàng/bạc. Học thuyết kêu gọi nên
nhập khẩu nguyên liệu thô về để chế biến và xuất khẩu lại ra nước ngoài, và chính phủ nên đánh thuế vào
hàng hóa đã chế tạo nhập khẩu từ nước ngoài cũng như cấm chế tạo hàng hóa ở các
thuộc địa.
Chủ nghĩa trọng nông,
một nhóm các học giả và các nhà lý luận người Pháp vào thế kỷ 18, đã
phát triển một quan điểm xem nền kinh tế như một vòng luân chuyển của
thu nhập và
đầu ra; họ cho rằng lĩnh vực quan trọng của kinh tế là sản xuất chứ không phải
thương mại. Người đứng đầu khuynh hướng này là
François Quesnay.
Trong “Biểu đồ kinh tế” của mình ông phân tích quá trình tái sản xuất
xã hội và phân phối sản phẩm xã hội giữa ba thành phần giai cấp: người
sản xuất, chủ đất và người phi sản xuất. Như vậy trường phái cổ điển đã
chuyển hướng nghiên cứu từ lĩnh vực thương mại sang lĩnh vực sản xuất và
tái sản xuất, xây dựng nền móng cho
thuyết giá trị về lao động.
Các nhà kinh tế cổ điển đánh giá phát triển xã hội bằng sự kết hợp hai
phương diện kinh tế và xã hội. Những nhà trọng nông tin rằng chỉ có sản
xuất
nông nghiệp mới có thể tạo ra
thặng dư rõ rệt so với
chi phí, vì thế, nông nghiệp là nền tảng của
của cải.
Họ phản đối chính sach của những nhà trọng thương đã khuếch trường chế
tạo và thương mại bằng cách bòn rút từ nông nghiệp, trong đó có thuế
quan nhập khẩu. Những nhà trọng nông ủng hộ việc từ bỏ thuế đánh trên
chi phí theo đơn vị hành chính sang sử dụng một loại thế duy nhất đánh
trên thu nhập của chủ đất. Những sự thay đổi quan điểm về
thuế bất động sản vẫn còn xuất hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế học sau này (ví dụ như
Henry George vào một thế kỷ sau), với các quan điểm về
doanh thu thuế đạt được từ những nguồn không gây
méo mó thị trường. Các nhà trọng nông, nói chung, là một phía đối chọi với làn
sóng của chủ nghĩa trọng thương với những quy tắc thương mại; họ ủng hộ
một chính sách "
laissez-faire" (
tiếng Pháp: dịch: hãy cứ làm điều đó) kêu gọi sự can thiệp tối thiểu của chính phủ vào thị trường.
Kinh tế học cổ điểnPhát triển thật sự của kinh tế học bắt đầu từ
trường phái cổ điển. Những công trình khoa học của những nhà kinh tế học đại diện trường phái này như “Luận bàn về thuế” (1662) của
William Petty, “Biểu đồ kinh tế” (1758) của
François Quesnay, “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các quốc gia” (hay “Sự giàu có của các quốc gia”) (1776) của
Adam Smith, “Nguyên lý kinh tế chính trị và áp thuế” (1817) của
David Ricardo.
Cuối nửa thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 từ trường phái cổ điển xuất hiện nhiều khuynh hướng khác, trong số đó có
Kinh tế tân cổ điển với các nhà khoa học
Carl Menger,
E. Roy Weintraub,
Léon Walras,
William Stanley Jevons,
John Bates Clark,
Alfred Marshall và
Kinh tế chính trị Marx-Lenin. Trong Kinh tế tân cổ điển có trường phái
Kinh tế lịch sử (
V. Zombart,
M.Veblen),
học thuyết định chế (
T. Veblen,
J. Gelbrath),
thuyết hiệu dụng biên (
J. B. Clark,
C. Menger,
F. Hayek). Các nhà kinh tế tân cổ điển nghiên cứu các quá trình kinh tế cụ thể, hành vi các
chủ thể kinh tế,
cơ chế thị trường tự do. Theo họ nhà nước chỉ giữ vững các điều kiện để phát triển thị trường và
cạnh tranh, nhưng không nên can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Kinh tế học Mác-xítKinh tế chính trị Marx-Lenin được trình bày trong các tác phẩm lý luận như: “Tư bản” (
Karl Marx), “Chống Duyring” (
F. Engels), “Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” (
V.I.Lenin).
Trên cơ sở phân tích sự phát triển chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn
lịch sử của nó Marx đã phát triển và củng cố thuyết giá trị về lao động
và xây dựng thuyết
giá trị thặng dư, thuyết
tích lũy và chuyển động tư bản, chỉ ra cơ chế vận động và mâu thuẫn trong xã hội tư sản. E4
Trường phái KeynesianTrường phái Keynesian xuất hiện trong thập niên 30 của thế kỷ 20 do nhà kinh tế lỗi lạc
John Maynard Keynes sáng lập như một khuynh hướng độc lập với
trường phái tân cổ điển.
Tác phẩm “Lý thuyết cơ bản về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của Keynes
đưa ra những phương pháp điều chỉnh kinh tế từ phía nhà nước nhằm giảm
mức thất nghiệp, dùng các công cụ tài chính để làm tăng hiệu quả lượng
cầu hàng hóa, tăng tỷ lệ tiêu dùng.
Vào nửa đầu thập niên 50 thế kỷ 20
trường phái Tân Keynesian tiếp nhận những quan điểm cơ bản của Keynes và trình bày lý thuyết tốc
độ và yếu tố tăng trưởng, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế. Những
công trình nghiên cứu của
R. Harrod,
E. Domar,
E. Hansen tập trung vào vấn đề kết hợp hiệu quả các yếu tố, làm sao trong điều
kiện cạnh tranh tự do có thể tăng lượng sản xuất và giảm tối thiểu
chi phí lao động và
vốn.
Trường phái tân cổ điển với
học thuyết tự do kinh doanh còn phục hưng trở lại ở thập niên 70-80 với
chủ nghĩa tiền tệ. Đứng đầu học thuyết này là
M. Fridman,
F. Hayek,
cho rằng tiền tệ và lưu thông tiền tệ là công cụ hiệu quả của điều
chỉnh và tự điều chỉnh thị trường, có khả năng đảm bảo ổn định và phát
triển phi khủng hoảng kinh tế.
Quan điểm về sự kết hợp giữa điều hòa sản xuất khu vực nhà nước với kích thích tự do thị trường là khuynh hướng của
chủ nghĩa tổng hợp do
J. R. Hiks,
P. Samuelson và những người khác lập nên trong những năm gần đây.
Các học thuyết kinh tế ra đời từ các
trường phái hay
khuynh hướng nổi tiếng như
trường phái Áo,
trường phái Chicago,
trường phái Freiburg,
trường phái Lausanne và
trường phái Stockholm.