DIỄN ĐÀN - TIN TỨC HƯNG YÊN
DIỄN ĐÀN - TIN TỨC HƯNG YÊN
DIỄN ĐÀN - TIN TỨC HƯNG YÊN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
DIỄN ĐÀN - TIN TỨC HƯNG YÊN

KẾT NỐI ĐỒNG HƯƠNG - HƯỚNG VỀ NGUỒN CUỘI
 
Trang ChínhPortalGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Similar topics
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» CEO Group tuyển thực tập sinh, tuyển du học sinh tại Nhật Bản 097.666.1800
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyThu Dec 05, 2013 9:38 am by xoaicat1

» Tuyển du học Nhật Bản 2014
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyThu Nov 28, 2013 2:06 pm by huyhung833

» Tuyển lao động sang Úc làm việc
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyTue Oct 15, 2013 3:09 pm by huyhung833

» Tuyển gấp Đầu bếp, thợ làm bánh sang Úc Làm việc
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyFri Oct 11, 2013 5:36 pm by huyhung833

» NHNN giảm tiếp 1% các lãi suất chủ chốt
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyFri May 10, 2013 2:48 pm by Kentada

» GIỚI THIỆU VỀ KHOA KIẾN TRÚC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHU VĂN AN
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyTue Mar 19, 2013 8:58 am by nguyenkuong

» NGÔI TRƯỜNG MỚI CỦA THẦY VÀ TRÒ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHU VĂN AN
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyThu Mar 14, 2013 8:22 am by nguyenkuong

» TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHU VĂN AN THÔNG BÁO TUYỂN SINH NĂM 2013
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptyTue Mar 12, 2013 1:58 pm by nguyenkuong

» Tút ảnh chụp thành tranh vẽ siêu "cool" bằng Photoshop - TH27
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptySat Feb 23, 2013 9:45 pm by Kentada

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa

Go down 
Tác giảThông điệp
Kentada

Kentada


Tổng số bài gửi : 279
Points : 857
Reputation : 3
Join date : 14/06/2011
Đến từ : Kim Động

Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa Empty
Bài gửiTiêu đề: Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa   Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa EmptySat Jun 18, 2011 7:48 am

Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các
đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn
viết vào năm 1776.



Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay,
con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai
phá, sinh cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý -
Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia
Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam
cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là
cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh
lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt
vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

1. TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT
CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO
NGOÀI BIỂN ĐÔNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII


Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lụccủa
nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: "Phủ Quảng Ngãi ở
ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré...;
phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và
những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới
đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải....

Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung
vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6
tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo
ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là
gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì,
súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi,
vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều.

Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và
định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm,
rồi lĩnh bằng trở về... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao
nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh
Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các
tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn
và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba,
bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản...

Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn
Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753)
có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương
Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm
kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió
đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về
nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá
là Thức Lượng hầu làm thư trả lời" [1].

Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực
và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị
trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ
chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải. Đại Việt sử ký tục biên
(1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn,
trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác
ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa củaĐại Việt sử ký tục biên chính
là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một
nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê
Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia. Đại Nam thực lục Tiền biên
là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn
thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội
Hoàng Sa, Bắc Hải không khácPhủ Biên tạp lụcĐại Việt sử ký tục biên.

Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng
và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc
thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung
Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã
mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: "các Quốc
vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo
các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào"[2].

Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hằng hải phương Tây đã có
nhiều ghi chép và bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là
Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa)[3]
và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng
Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ
biển Hoàng Sa)[4]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hằng hải phương Tây đã
coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng
Trong.

Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi
đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo
giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến
các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa
các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình
quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị
đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp
trên tầu Amphitrite khẳng định: "Paracel là một quần đảo thuộc về vương
quốc An Nam"[5].

Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương
Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện
diện của đội Hoàng Sa.

Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa
được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào?

Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ,tức
là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định
rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan...? Tại
nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15/Giêng/1775, do Hà Liễu là Cai
hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng
Sa. Đơn cho biết: "Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế
Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được
lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh
30 người...".

Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội
Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có
thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.Năm 1636,
ng­uời Hà Lan đã đu­ợc phép mở một th­uơng điếm ở Hội An, d­ưới quyền
điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An chúa Thư­ợng Nguyễn
Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc "chiếc
tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn
thuỷ thủ đã đ­ược các ng­ười Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nh­ưng đồng
thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux". Ông có nhiệm vụ xin
đ­ược bồi hoàn số tiền đó.

Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng "những việc đó đã đ­ược xảy ra từ thời
chúa tr­ước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa,
ng­ược lại, ng­ười Hà Lan từ nay sẽ đ­ược hoàn toàn tự do mang hàng hoá
đến buôn bán, đ­ược miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan bị đắm
ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá đ­ược cứu hộ
nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu Grootenbroeck bị đắm ở
Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ
sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30
của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).

Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các
vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý
nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở
Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước,
của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ,
các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong
ngoài và nước.

Cũng đúng vào năm 1776 khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục
khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như
cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương
của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã
có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn
có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: "Nguyên xã chúng tôi
từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai
đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin
làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm
nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp.
Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng
chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm
báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp..."[6].

Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà
nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa
phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí
cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc
biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm
nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng
biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: "Hoàng Sa đi có về không; Lệnh vua
sai phái quyết lòng ra đi".

Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa Tu-lieu-bien-dao_1308302602_1308302602
Nguồn: Báo Giác Ngộ

2. TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX

Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa
dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức
của vương triều và tài liệu của các học giả.Bộ sách đồ sộ và có nhiều
thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên.
Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm
đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: "sai mộ dân
ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa" năm 1803; "sai đội Hoàng Sa là bọn
Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển" năm 1815 và năm 1816;
nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817...

Nhưng hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh.
Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và
trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần,
lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết
định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành
bản đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân
Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ "Minh Mệnh
thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu
Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi
nhớ".

Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những
người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không
may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng;
còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị
phạt nặng...Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu,
trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt
vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước
Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã
được nhà vua "sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe,
đồng thời mở cuộc phát chẩn...".

Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà
quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà
nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc
làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được hoàn
thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851.

Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng
Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so
với Đại Nam thực lục Chính biên. Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên,
trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ
bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.

Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của
Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự
nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá
cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải,
thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa... Đại Nam nhất thống chí do
Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa,
Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.

Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: "Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền
công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu
và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào
được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân".Nhiều công trình chuyên
khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời
khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép "đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm). "Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn.

Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã
từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật
hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển
Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt
Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những
thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương
Tây đương đại. Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để
khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ
quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn.

Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị,
chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình
thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo
này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi
công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của
Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc
phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc
phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không
xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết
đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở),
còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được...

Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa,
Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng,
trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành
trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi
dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc
được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một
chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách.

Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục...

Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận
một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa
vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức
để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của
nước Việt Nam thống nhất. Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều,
Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố
chính quyền.

Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste
Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ Đàng Trong
mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo
đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài
đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo
nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua
hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này". Các tác giả phương Tây lúc
đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý
của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.

Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở
Đàng Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel... Vào năm 1816, nhà vua đã tới
long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi
đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông
ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire
cho biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu
như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và
một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai
đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ".

Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính
phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ
muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo
Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê
cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm
những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa
điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ
Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào
không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn
rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó
vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi
tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm
1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó".

Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã
lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ
quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là
niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành
lại chủ quyền bằng mọi giá.

Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và
Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp
phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa
Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa
Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá
cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương
tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh.

Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và
những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp
trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các
thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc
đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công
phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà
ghi chép lại một cách khách quan, trung thực.

Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ
và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về
công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là
thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ
quân.

Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa,
có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những
lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi Thuỷ
quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội
Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng
ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại... Các đội Hoàng Sa,
Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí
có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là
một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX
trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa
mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được.

Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình
An... vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản
dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của
đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn
cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả
năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp
kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục
hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội
Hoàng Sa, Bắc Hải tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến Việt
Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông.

Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình
ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như
vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức
thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ,
lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho
người qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa,
Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân,
biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu.

Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà
nước dưới hình thức "tờ sai để thi hành công vụ" và nhiều khi chính nhà
vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng
lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để
báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công
để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công
hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều
được Nhà nước cấp bằng xác nhận.

Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm,
nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi người ta phải
làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được
đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản
nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của chính mình. Trang
lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng
máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế.

Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những
trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào
cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn
cho muôn đời sau.
-----------
[1] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116.
[2] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế tr.125.
[3] Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989.
[4] Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốnIconographie Historique de l'Indochine của P.Boudet và A.Masson, Paris, 1931.
[5] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).
[6] Đơn của phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776
(lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi).


  • Theo Tạp chí Xưa và nay
Về Đầu Trang Go down
https://hungyen.catsboard.com
 
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» ĐH Huế: Gần 40.000 văn bằng, chứng chỉ ĐH bị in sai quốc huy
» Tổng bí thư: "Phải thực hiện nhiều biện pháp để giữ chủ quyền"
» ......Lịch 2012.........

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
DIỄN ĐÀN - TIN TỨC HƯNG YÊN :: HƯNG YÊN :: Chuyên Trang "Phản Đối Trung Quốc"-
Chuyển đến