Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song
luôn có những lợi ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều
nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa
đấu tranh nhưng không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự.
Quan hệ quốc tế của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử
lý thế nào cặp quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước. Thế giới và khu vực bước vào thập kỷ thứ hai của thế
kỷ XXI với biết bao phức tạp, rối ren. Sau những năm tháng tưởng như
hưng thịnh vào đầu những năm 2000, tới cuối thập kỷ bỗng bùng phát cuộc
khủng hoảng tài chính-
tiền tệ và suy giảm
kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất trong 80 năm. Cho tới nay, kinh tế thế giới vẫn
chưa vực dậy được. Một loạt nước châu Âu tưởng như rất giàu sang bỗng
đứng trước nguy cơ vỡ nợ, thậm chí nước giàu nhất thế giới là Mỹ cũng
thành "Chúa Chổm".
Sau sự lụn bại đó, kinh tế thế giới đang trải qua một cuộc đại phẫu:
Từ cơ cấu sản xuất, tiêu dùng, tài chính-tiền tệ cho tới chính sách, cơ
chế quản lý; sức mạnh các nền kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế đang
được xếp sắp lại... Về chính trị-an ninh, thế giới đang chứng kiến hai
cuộc chiến tranh nóng kéo dài ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, sự xáo động xã
hội dữ dội ở Trung Đông, Bắc Phi, không ít cuộc khủng bố, xung đột, căng
thẳng về chủ quyền lãnh thổ và tài nguyên, kể cả trên Biển Đông; sức
mạnh các quốc gia và bàn cờ quốc tế đang chuyển dịch mạnh.
Những diễn biến dồn dập về cường độ, rộng lớn về phạm vi, sâu sắc về ý
nghĩa nói trên cho thấy cục diện thế giới ẩn chứa rất nhiều nhân tố bất
định đòi hỏi mọi quốc gia, trong đó có nước ta, phải tỉnh táo nắm bắt,
chọn lựa chính xác cách hành xử thích hợp.
Nhìn nhân tình thế thái mới, có lẽ nên ôn lại và vận dụng thật tốt
những bài học của nền ngoại giao Hồ Chí Minh để ứng phó với cái "vạn
biến" đang diễn ra.
Trong hơn 65 năm qua kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã phải
trải qua biết bao thử thách, biết bao thời khắc hiểm nguy: Nào là thù
trong giặc ngoài khi nước Việt Nam độc lập còn trong trứng nước, nào là
mấy cuộc kháng chiến chống ngoại xâm liên tiếp và kéo dài, nào là tình
thế bị bao vây cô lập hơn một chục năm trời. Thế nhưng nhân dân ta đã
vượt qua được tất thảy, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động
ngoại giao. Ngày nay, lực và thế của nước ta đã khác hẳn trước, há nào
không xây dựng và bảo vệ thành công đất nước? Ôn cựu, trước hết là ôn
lại và củng cố niềm tin; không có nó thì chẳng làm nên điều gì!
|
Các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và 8 nước đối tác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương bàn về vấn đề hòa bình trong khu vực, khi tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng đầu tiên, được tổ chức tại Hà Nội tháng 10-2010. Ảnh tư liệu |
Niềm tin ở đây không phải là mù quáng mà dựa trên những bài học của
quá khứ, sự nhận diện một cách khoa học, tỉnh táo hiện tại và đoán định
tương lai.
Trên chặng đường nào cũng vậy, điều then chốt là xác định cho trúng
và kiên trì cái "bất biến", hay nói một cách khác là cái lợi ích chính
yếu của đất nước. Ngày nay, phải chăng cái "bất biến" đối với nước ta là
"lợi ích kép": Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng
thời duy trì sự ổn định chính trị-xã hội trong nước và môi trường quốc
tế thuận lợi để tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh
tế-xã hội. Hai vế đó gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại và là
tiền đề của nhau. Nói một cách hình tượng thì hai vế đó giống như hai
cái cánh của một con chim; gẫy cánh nào chim cũng không bay nổi.
Đối với mọi quốc gia, lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, giữ vững độc lập,
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là nghĩa vụ thiêng liêng; không
bảo vệ được chúng thì khỏi nói đến chuyện phát triển. Ngược lại, không
nỗ lực tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất để phát triển đất
nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia thì cũng không lấy đâu
ra "thực lực" và không thể tạo dựng được "vị thế" cần thiết để bảo vệ
đất nước. Do đó bất luận thế nào, về phần mình, chúng ta cần chủ động
"ứng vạn biến" để bảo vệ trọn vẹn cả hai vế. Đương nhiên, làm được như
vậy không dễ vì có những nhân tố không tùy thuộc vào bản thân chúng ta.
Nhưng càng khó chúng ta càng cần huy động nguồn trí tuệ và sự khôn khéo
vốn có của trường phái ngoại giao Việt Nam mà Bác Hồ là một biểu tượng
sáng ngời.
Khéo gì thì khéo vẫn phải có thực lực cả về vật chất lẫn tinh thần,
hữu hình lẫn vô hình. Chỉ có vậy mới vận dụng được bài học kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc, trước hết nằm ở
sức mạnh kinh tế và quốc phòng-an ninh. Để củng cố sức mạnh ấy, đương
nhiên Nhà nước gánh trách nhiệm lớn song rất cần sự đồng lòng, nhất trí
và sự đóng góp thiết thực của mỗi người chúng ta bằng những hành động cụ
thể. Lòng yêu nước lúc này cần được thể hiện không chỉ bằng những lời
nói mà trước hết trong những việc làm góp phần làm cho dân giàu, nước
mạnh.
Bên cạnh sức mạnh vật chất, dân tộc ta vốn có những sức mạnh vô hình,
nhiều khi còn lớn hơn sức mạnh vật chất. Đó là sức mạnh chính nghĩa,
truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Vốn bị áp bức, đè
nén, xâm lược, bao vây, nghèo nàn, nhân dân ta luôn theo đuổi những mục
tiêu chính đáng: Quyền được sống trong điều kiện độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, được an hưởng hòa bình, có được cuộc sống ấm no hạnh
phúc, có quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi dân tộc trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi dựa trên luật pháp quốc tế. Tính chính nghĩa của những mục
tiêu theo đuổi tạo nên sức mạnh tinh thần, quy tụ ý chí toàn dân tộc,
đồng thời tranh thủ được sự đồng tình của mọi người có lương tri trên
thế giới.
Tinh thần yêu nước cháy bỏng và khối đoàn kết dân tộc được hun đúc
qua hàng ngàn năm giữ nước, thường được thể hiện mạnh mẽ mỗi khi đất
nước gặp khó khăn thử thách. Lúc này đây, truyền thống yêu nước và tinh
thần đoàn kết toàn dân tộc cần được quy tụ vào việc bảo đảm cả hai nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi hành vi, cho dù xuất phát từ những
động cơ rất trong sáng, nhưng vô hình trung tạo ra sự phân tâm hoặc bất
ổn xã hội, gây trở ngại cho việc củng cố tiềm lực, triển khai chính sách
đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đều có thể làm cho sức mạnh dân
tộc bị suy yếu, chỉ có lợi cho những người muốn thấy một nước Việt Nam
yếu và chia rẽ. Đó là chưa kể một số kẻ mưu toan "đục nước béo cò", lợi
dụng nhiệt huyết của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho những tính
toán riêng của họ.
Nhân dân ta còn có một sức mạnh khác mà không phải dân tộc nào cũng
có. Đó là mối cảm tình, sự tôn trọng của nhân dân thế giới do ý chí đấu
tranh kiên cường, sự hy sinh lớn lao và những cống hiến quý báu vào sự
nghiệp độc lập dân tộc trong quá khứ cũng như thái độ đầy trách nhiệm và
những đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển hiện nay.
Hoạt động ngoại giao tích cực, chủ động, linh hoạt với tinh thần rộng
mở và thái độ trách nhiệm cao, ra sức đóng góp cho sự nghiệp hòa bình,
hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới, qua đó thu phục lòng
người có thể tạo nên "sức mạnh mềm" có lợi cho việc củng cố thế và lực
của đất nước. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong khi "lực" chưa mạnh đủ
mức nhưng tạo được "thế" thuận lợi thì lực sẽ được nhân lên bội phần.
Trước đây đã vậy, ngày nay không khác.
Trong hoàn cảnh hiện nay, sức mạnh thời đại thể hiện trong khát vọng
của nhân dân thế giới về hòa bình và hợp tác để phát triển, về một trật
tự chính trị và kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi dựa trên những
chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa tạo nên tính tùy
thuộc lẫn nhau, lợi ích đan xen. Mọi quốc gia lớn nhỏ đều phải cân nhắc
thiệt hơn trong sự hành xử của mình nếu đi ngược lại những chiều hướng
đó.
Những ước nguyện chính đáng của nhân dân ta bắt gặp ý nguyện và xu
thế chung của nhân loại tạo nên sức mạnh to lớn, giúp nhân dân ta vượt
qua những khó khăn, thử thách mới.
Kiên trì, nhất quán theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đi
liền với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa là một
bài học lớn nữa đem lại thành công trên mặt trận ngoại giao. Thực tiễn
mấy chục năm qua cho thấy, ta chỉ có thể thành công nếu kiên trì đường
lối độc lập, tự chủ, ra sức huy động sức mạnh và trí tuệ của bản thân đi
đôi với việc nỗ lực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế rộng rãi
nhất có thể và thực thi một chính sách đối ngoại khôn khéo, tạo dựng thế
đứng cơ động, linh hoạt, không để bị lợi dụng hoặc rơi vào thế cô lập.
Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, mỗi quốc gia đều có lợi ích và
tính toán riêng, do đó không phải một lần những vấn đề liên quan tới lợi
ích của nước ta đã được đem ra xếp sắp, trao đổi trên bàn cờ quốc tế.
Ngày nay, bài học này vẫn còn nguyên giá trị. Muốn tránh lặp lại tình
trạng này, không có cách nào khác ngoài việc phát huy cao độ tinh thần
tự lực tự cường, kiên định, nhất quán theo đuổi đường lối độc lập tự chủ
và chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa.
Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những lợi
ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều nhau, nên trong
quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng
không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự. Quan hệ quốc tế
của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử lý thế nào cặp
quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước. Kinh nghiệm thực tiễn cho
thấy, muốn vậy cần tìm mọi cách hạn chế tới mức tối đa những mâu thuẫn,
xung khắc, đối đầu, song song với những cố gắng không mệt mỏi thúc đẩy
sự hợp tác với mọi quốc gia trong khi vẫn tự chủ, không rơi vào thế phụ
thuộc. Nếu xảy ra khác biệt, xung đột lợi ích thì con đường tốt nhất là
thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết; vấn đề gì liên quan tới
hai nước thì thông qua kênh song phương, vấn đề liên quan tới nhiều bên
thì thông qua kênh đa phương, kể cả các tổ chức khu vực và toàn cầu.
Điều này cũng phù hợp với xu thế đa phương trong thế giới ngày nay.
Mặt khác cần kiên trì, khôn khéo đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính
đáng của mình, song cố tránh đi tới xung đột trực diện gây phương hại
cho yêu cầu giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển và thế
cơ động trong quan hệ quốc tế. Một nét đặc sắc không chỉ về ngoại giao
mà cả trong truyền thống của dân tộc ta là tính nhân văn, luôn phân biệt
rõ cái thiện, cái ác, luôn coi nhân dân các nước xâm lược nước ta là
bạn, là đồng minh và rất xa lạ với những biểu hiện dân tộc hẹp hòi, kích
động hằn thù mù quáng. Có thể nói, phương châm "thêm bạn bớt thù" của
ông cha ta tiếp tục là một công cụ hữu hiệu trong quan hệ quốc tế ngày
nay.
Nói tóm lại, tình hình càng phức tạp chúng ta càng cần phải vận dụng
nhuần nhuyễn những truyền thống, những bài học lớn đã thu lượm được
trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày Nhà nước Việt Nam mới ra đời đến
nay. Dũng khí cần song hành với mưu lược, nhiệt huyết cần đi đôi với sự
tỉnh táo, có trái tim nóng chưa đủ mà cần có cái đầu lạnh.